CHUYÊN MỤC / Nghiên cứu, trao đổi

Xác định tái phạm Để định tội danh và định khung hình phạt

05/11/2025 | 20

Qua nghiên cứu và vận dụng tập Tài liệu trao đổi một số vướng mắc trong áp dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay trong quá trình thực tiễn do Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội biên soạn tại Câu 25 tình huống 2. A có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản và 01 tiền án về tội “Cướp tài sản”. A lại tiếp tục thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” dưới 2 triệu đồng. Vậy trong trường hợp này sẽ sử dụng cả tiền sự và tiền án để định tội đối với hành vi “Trộm cắp tài sản’ dưới 2 triệu hay chỉ sử dụng tiền sự để định tội còn tiền án về tội “Cướp tài sản” để tính tái phạm (theo như ví dụ 1 tại điểm b tiểu mục 7.3 mục 7 Nghị quyết số 01 ngày 12/5/2006 của HĐTPTATC).

Nội dung này được Viện KSND Cấp cao trả lời: Vận dụng Nghị quyết số 01 ngày 12/5/2008 của HĐTPTANDTC theo điểm b tiểu mục 7.3 mục 7 “b. Trường hợp các tiền án của bị cáo không được xem xét là dấu hiệu CTTP “đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” vì hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố CTTP thì các tiền án của bị cáo phải tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Ví dụ 1.H đã bị kết án về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chưa chấp hành xong hình phạt, H trộm cắp tài sản có giá trị bốn trăm ngàn đồng và gây hậu quả nghiêm trọng.Trong trường hợp này tiền án về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” phải tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy  hiểm đối với H” Vận dụng hướng dẫn trên thì hành vi phạm tội lần này của A CTTP do có tiền sự (đã bị xử phạt vi phạm hành chính) về hành vi trộm cắp tài sản, còn tiền án về tội “ Cướp tài sản” không được sử dụng làm dấu hiệu định tội nên hành vi phạm tội lần này của A thuộc trường hợp “Tái phạm”. (tình huống pháp lý này là tội phạm có cùng tính chất chiếm đoạt).

Tuy nhiên khi đối chiếu tình huống pháp lý trên với quy định tại điểm a tiểu mục 7.3 mục 7 của Nghị quyết số 01 năm 2006 quy định “a. Trường hợp các tiền án của bị cáo đã được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” thì các tiền án đó không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với bị cáo.”Ví dụ: D là người đã có hai tiền án đều về tội chiếm đoạt tài sản (có thể đều cùng về tội Trộm cắp tài sản, có thể về tội Trộm cắp tài sản và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Sau khi ra tù, chưa được xóa án tích D lại trộm cắp tài sản có giá trị dưới năm trăm ngàn đồng, thì trong trường hợp này hai tiền án về tội chiếm đoạt tài sản được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội chiếm đoạt, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” để truy cứu trách nhiệm hình sự D theo khoản 1 Điều 138 của BLHS mà không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với D.

Theo quan điểm của tác giả: Đối chiếu hai tình huống pháp lý trên thấy rằng. Tình huống do VKSND cấp cao trả lời thì A chỉ có một tiền sự và 01 tiền án (đều cùng loại) nhưng khi bị xử lý thì lại bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm”. Trong khi đó ở tình huống thứ hai theo như hướng dẫn tại điểm a của Nghị quyết thì hành vi của D lại nguy hiểm hơn hành vi của A, bởi vì D đã có hai tiền án về tội chiếm đoạt tài sản (nặng hơn A chỉ có 1 tiền sự và một tiền án) thì không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm”.

Mặt khác theo như ví dụ tại điểm b tiểu mục 7.3 mục 7 của Nghị quyết như đã nêu trên hành vi A trộm cắp tài sản trị giá 400.000đ và Gây hậu quả nghiêm trọng đã đủ yếu tố CTTP, tức là hành vi của A đã độc lập và đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Khác hoàn toàn bản chất với trường hợp phạm tội do nhân thân là “đã bị xử lý hành chính”. Vì vậy tình huống 2 ở câu 25 cần vận dụng và áp dụng theo điểm a tiểu mục 7.3 mục 7 Nghị quyết số 01 ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC thì chỉ xác định A phạm tội Trộm cắp tài sản chứ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm”

Trên đây là quan điểm đưa ra để các bạn đọc cùng nghiên cứu trao đổi, rất mong nhận được sự trao đổi, góp ý của các đồng nghiệp./.

 

              Tác giả Nguyễn Minh Tiến- Viện KSND khu vực 2- Hưng Yên


Thông tin nội bộ