CHUYÊN MỤC / Nghiên cứu, trao đổi

Trách nhiệm hình sự Đối với Giám đốc doanh nghiệp theo quy định tại Điều 228 BLHS.

05/11/2025 | 30

Thời gian gần đây, vấn đề vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai diễn biến theo chiều hướng phức tạp, gây bức xúc dư luận, khó khăn trong công tác quản lý nhà nước. Các vi phạm chủ yếu tập trung vào các dạng như: sử dụng không đúng mục đích, không sử dụng; tiến độ thực hiện dự án chậm; lấn chiếm; chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính; thủ tục hành chính về đất đai; vi phạm trong việc cưỡng chế giải phóng mặt bằng…Cùng với đó hệ thống văn bản pháp luật về đất đai còn nhiều tồn tại bất cập, Luật Đất đai năm 2024 chính thức có hiệu lực thi hành nhưng đang trong quá trình chuyển tiếp còn khiến cho địa phương lúng túng trong việc áp dụng quy định mới và quy định cũ, nhận thức còn có sự khác nhau, gây khó khăn cho cả phía cơ quan và người sử dụng đất hoặc có những vi phạm Luật Đất đai xảy ra nhưng lại có nhiều cách giải quyết khác nhau, không thống nhất dẫn đến nguyên tắc bảo đảm pháp chế không được nghiêm minh.

Trong phạm vi bài viết này, tác giả muốn đề cập một sự kiện pháp lý thực tế đã phát sinh, mà có nhiều quan điểm giải quyết khác nhau, cần đưa ra để các bạn đọc nghiên cứu và trao đổi quan điểm.

Công ty Cổ phần A (gọi tắt là Công ty) có Giám đốc là Nguyễn Văn T.  Công ty đã được UBND tỉnh H phê duyệt quy hoạch dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp. Công ty đã cùng với UBND xã lập phương án bồi thường, hỗ trợ về đất đai hoa màu trong phạm vi giải phóng mặt bằng thực hiện dự án và đã được Chủ tịch UBND huyện ban hành Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thực hiện dự án và ra các Quyết định thu hồi đất của các hộ dân có diện tích nằm trong diện giải phóng mặt bằng thực hiện dự án. Về cơ bản có một số hộ dân đã đồng ý với phương án bồi thường, hỗ trợ và giao lại đất cho dự án. Tuy nhiên, có một số hộ dân không đồng ý về giá bồi thường, hỗ trợ nên chưa nhận bồi thường, hỗ trợ và chưa bàn giao đất cho Công ty với lý do giá đền bù chưa thỏa đáng.

Nhưng trong quá trình thực hiện san lấp Công ty và trực tiếp là Nguyễn Văn T đã chỉ đạo san lấp phần diện tích đất của một số hộ dân chưa nhận tiền đền bù, bồi thường giải phóng mặt bằng dẫn đến bức xúc đơn thư.  Ngày 22/10/2022, Ủy ban nhân dân huyện ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính xử phạt Công ty về hành vi “Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp không được cấp có thẩm quyền cho phép, diện tích 10ha”, mức xử phạt 70.000.000 đồng. Tiếp theo ngày 22/10/2023 Ủy ban nhân dân tỉnh H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty về hành vi “Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp không được cấp có thẩm quyền cho phép, diện tích 10ha và chiếm đất nông nghiệp là đất trồng lúa tại khu vực nông thôn diện tích khoảng 2ha”, mức xử phạt 500.000.000 đồng. Công ty đã chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Việc UBND huyện và UBND tỉnh H xử phạt hành chính đối với Công ty là hoàn toàn đúng pháp luật.

Căn cứ khoản 1 và khoản 2 của Điều 3 Nghị định 91/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định.

Điều 3. Giải thích từ ngữ

1. Lấn đất là việc người sử dụng đất chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất sử dụng mà không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép hoặc không được người sử dụng hợp pháp diện tích đất bị lấn đó cho phép.

2. Chiếm đất là việc sử dụng đất thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Tự ý sử dụng đất mà không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép;

b) Tự ý sử dụng đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác mà không được tổ chức, cá nhân đó cho phép;

c) Sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê đất đã hết thời hạn sử dụng mà không được Nhà nước gia hạn sử dụng (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng đất nông nghiệp);

d) Sử dụng đất trên thực địa mà chưa hoàn thành các thủ tục giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật.

Đối chiếu hành vi vi phạm Luật Đất đai của Công ty với mặt khách quan của Điều 228 BLHS tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai thì thấy rằng hành vi vi phạm của cả lần 1 và lần 2 Công ty là “Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp không được cấp có thẩm quyền cho phép”. Trường hợp vi phạm này là đất trong dự án mà Công ty được giao thực hiện, nhưng chưa tiến hành giải phóng mặt bằng và chính quyền chưa làm thủ tục giao đất thực địa cho công ty, chưa hoàn thiện các thủ tục pháp lý, nhưng Công ty vẫn tiến hành san lấp. Lần thứ hai ngoài hành vi trên Công ty còn có hành vi: Chiếm đất nông nghiệp là đất trồng lúa tại khu vực nông thôn”. Cả hai lần vi phạm này đều thỏa mãn quy định tại khoản 1 và điểm d khoản 2 Điều 3 như đã viện dẫn trên, nên đã thỏa mãn mặt khách quan của Điều 228 BLHS. Một vấn đề đặt ra ở đây là với hành vi vi phạm hai lần liên tiếp của Công ty như vậy thì có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Giám đốc Nguyễn Văn T theo Điều 228 BLHS được không?

Ảnh: Hiện trường nơi xảy ra sự việc

Quan điểm thứ nhất: Nguyễn Văn T không bị xử lý hình sự theo Điều 228 BLHS bởi vì:

- Căn cứ Điều 75 BLHS thì xác định Nguyễn Văn T thực hiện hành vi nhân danh pháp nhân, thực hiện vì lợi ích của pháp nhân và có sự chấp thuận của pháp nhân nên thỏa mãn các quy định tại khoản 1 Điều 75 BLHS để xác định pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, Điều 76 BLHS lại không có quy định xử lý pháp nhân theo Điều 228 BLHS. Do đó hành vi của pháp nhân đã bị loại trừ trách nhiệm hình sự thì không có căn cứ để xử lý Nguyễn Văn T theo khoản 2 Điều 75 BLHS về việc không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân được.

- Điều 228 BLHS quy định chủ thể phải là người đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm, trong trường hợp này Nguyễn Văn T thực hiện nhân danh pháp nhân nên UBND huyện và UBND tỉnh ra Quyết định xử phạt hành chính đối với pháp nhân, không xử phạt đối với cá nhân nên T không bị xác định là người đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm. Không thể đồng nghĩa hai khái niệm Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính và cá nhân bị xử phạt vi phạm hành là một được.

- Theo quy định tại điểm đ, e khoản 1 Điều 3 - Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính của Luật xử lý vi phạm hành chính được sửa đổi, bổ sung năm 2020 thì đối với một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 2 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Như vậy Luật xử lý vi phạm hành chính đã có sự phân định rõ ràng giữa cá nhân và pháp nhân.

- Mục đích xử phạt hành chính đối với tổ chức nghiêm khắc hơn bởi vì tổ chức sẽ cố định, dễ xử lý. Còn Giám đốc có thể liên tục bị thay đổi dẫn đến việc xử lý cá nhân gặp khó khăn.  

- Hiện nay chưa có văn bản quy định rõ ràng, xét về nguyên tắc có lợi thì không xem xét xử lý đối với Nguyễn Văn T theo Điều 228 BLHS.

Quan điểm thứ hai: Gắn trách nhiệm hình sự của Nguyễn Văn T - Giám đốc công ty đã thực hiện không đúng quy định của Luật đất đai, tiến hành san lấp chuyển đổi mục đích sử dụng đất khi chưa được cấp cấp có thẩm quyền bàn giao và chiếm đất nông nghiệp dẫn đến Công ty bị xử phạt vi phạm hành chính, nên xem xét xử lý trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn T theo Điều 228 BLHS bởi vì:

- Căn cứ khoản 3, 4 Điều 162 Luật Doanh nghiệp quy định Giám đốc công ty cổ phần có các quyền và nhiệm vụ sau đây:

“3. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có quyền và nghĩa vụ sau đây:

a) Quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công ty mà không cần phải có quyết định của Hội đồng quản trị; b) Tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị; c) Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty; …  i) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và quyết định của Hội đồng quản trị.

4. Giám đốc  phải điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của Hội đồng quản trị. Nếu điều hành trái với quy định này mà gây thiệt hại cho công ty thì Giám đốc  phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty…”

-Tại Nghị định 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.

“Điều 3. Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính

1. Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

2. Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Là pháp nhân theo quy định của pháp luật dân sự hoặc các tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật;

b) Hành vi vi phạm hành chính do người đại diện, người được giao nhiệm vụ nhân danh tổ chức hoặc người thực hiện hành vi theo sự chỉ đạo, điều hành, phân công, chấp thuận của tổ chức và hành vi đó được quy định tại nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước”. Theo quy định trên khi cơ quan chức năng ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty tức là đã thỏa mãn đầy đủ điểm a và b khoản 2 Điều 3 Nghị định nêu trên. Mọi hoạt động của pháp nhân được thông qua các hành vi của cá nhân và các hành vi đó tạo ra quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân. Trong vụ việc này cơ quan chức năng căn cứ vào các quy định trên để xử lý vi phạm hành chính đối với Công ty cổ phần A (Pháp nhân) tức là đã bao gồm xử lý vi phạm hành chính cả đối với cá nhân Nguyễn Văn T vì có hành vi điều hành hoạt động công ty trái với quy định của pháp luật gây thiệt hại cho công ty. Như vậy thì cá nhân Nguyễn Văn T phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty.

- Mặt khác, nếu không xử lý đối với Nguyễn Văn T thì thực tiễn sẽ xảy ra việc các cá nhân này lợi dụng danh nghĩa pháp nhân, cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhưng được che đậy, núp bóng dưới danh nghĩa pháp nhân hoặc đổ lỗi cho pháp nhân. Hoặc sẽ phát sinh sự bất bình đẳng khi áp dụng pháp luật đối với trường hợp một cá nhân cụ thể vi phạm thỏa mãn cấu thành cơ bản của Điều 228 BLHS thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong khi đó một tổ chức (pháp nhân) thực hiện hành vi cũng như vậy thì chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính và người điều hành pháp nhân thực hiện hành vi vi phạm đó lại không bị xử lý vi phạm hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự.   

Trên đây là một số quan điểm khác nhau khi giải quyết vụ việc. Rất  mong ý kiến trao đổi của các bạn đọc và đồng nghiệp.

         Tác giả Nguyễn Minh Tiến- Viện KSND khu vực 2- Hưng Yên


Thông tin nội bộ