Thực tiễn qua công tác kiểm sát đối với hành vi vi phạm pháp luật về ma túy thấy rằng, tình hình tội phạm về ma túy diễn ra phức tạp, số người nghiện ma túy có xu hướng gia tăng. Trong khi đó pháp luật hiện hành chỉ quy định xử lý về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy kể cả với những trường hợp tàng trữ để sử dụng. Thực tế cho thấy một xung đột pháp lý đã nảy sinh khi một người mua ma túy chưa kịp sử dụng nếu bị bắt quả tang (tội phạm chưa đạt) thì bị khởi tố, còn nếu người đã sử dụng gây hậu quả lớn hơn thì lại không bị xử lý hình sự về hành vi tương ứng. Hoặc nhiều trường hợp người đang trong quá trình cai nghiện hoặc sau khi kết thúc cai nghiện vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng không có chế tài nghiêm khắc nào để xử lý dẫn đến biện pháp cai nghiện không đạt được mục đích.
Chính vì vậy, ngày 25/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 86/225/QH15 sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật số 12/2017/QH14 và Luật số 59/2024/QH15. Theo đó, bổ sung điều 256a “Tội sử dụng trái phép chất ma túy” được áp dụng, thực hiện đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 00 giờ 00 phút ngày 01/7/2025.
“Điều 256a. Tội sử dụng trái phép chất ma túy
1. Người nào sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 03 năm:
a) Đang trong thời hạn cai nghiện ma túy hoặc điều trị nghiện các chất ma túy bằng thuốc thay thế theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy;
b) Đang trong thời hạn quản lý sau cai nghiện theo quy định của Luật phòng, chống ma túy;
c) Đang trong thời hạn 02 năm kể từ ngày hết thời hạn quản lý sau cai nghiện ma túy và trong thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy;
d) Đang trong thời hạn 02 năm kể từ khi tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện hoặc điều trị nghiện các chất ma túy bằng thuốc thay thế theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy.
2. Tái phạm về tội này thì bị phạt tù từ 03 năm đến 05 năm.”
.png)
Hình ảnh minh họa chất ma túy tổng hợp thu giữ được từ các đối tượng
Theo cấu thành của điều luật thì khách thể của điều luật là Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; cai nghiện ma túy. Các biện pháp cai nghiện ma túy được quy định tại Điều 28 Luật phòng chống ma túy năm 2021 bao gồm:
+ Biện pháp cai nghiện ma túy tự nguyện: được thực hiện tại gia đình, cộng đồng hoặc tại Cơ sở cai nghiện ma túy;
+ Biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc: được thực hiện tại cơ sở cai nghiện ma túy công lập.
Đối với trường hợp cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng được quy định tại Điều 30 Luật phòng chống ma túy thì thời hạn cai nghiện từ đủ 06 tháng đến 12 tháng. Người cai nghiện ma túy được tiếp nhận, phân loại, điều trị cắt cơn, giải độc, điều trị các rối loạn về tâm thần, giáo dục tư vấn, phục hồi hành vi và nhân cách. Trách nhiệm của người cai nghiện ma túy phải thực hiện đúng, đầy đủ các quy định về cai nghiện ma túy tự nguyện và tuân thủ hướng dẫn của cơ quan chuyên môn. Đối với trường hợp cai nghiện ma túy tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy được quy định tại Điều 31 luật phòng chống ma túy ngoài những nội dung trên thì Cơ sở cai nghiện có trách nhiệm cấp giấy xác nhận hoàn thành cai nghiện ma túy tự nguyện cho người cai nghiện ma túy.
Biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc được quy định tại Điều 32 Luật phòng chống ma túy. Đây là biện pháp Xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật xử lý hành chính khi người nghiện ma túy: Không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện; Trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy; Người nghiện ma túy các chất dạng thuốc phiện không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế do vi phạm quy định về điều trị nghiện; Trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy mà tái nghiện.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng bao gồm những người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 33 Luật phòng chống ma túy. Ngoài quy định trên thì người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi là người chưa thành niên và việc đưa những đối tượng này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải do Tòa án nhân dân cấp huyện (nay là Tòa án nhân dân khu vực) quyết định và thời hạn cai nghiện ma túy đối với đối tượng này là từ đủ 06 tháng đến 12 tháng.
Đối với những trường hợp cai nghiện tại cơ sở bắt buộc hoặc cai nghiện tại cơ sở cai nghiện ma túy thông thường thì hồ sơ ở những cơ sở này đều đảm bảo quy trình về hồ sơ cai nghiện. Trong phạm vi bài viết này tác giả chỉ nêu trường hợp hồ sơ cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng được thực hiện theo quy định tại Điều 31 và Điều 32 của Nghị định số 116/2021/NĐ-CP ngày 21/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống ma túy, Luật xử lý vi phạm hành chính về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy (gọi tắt là Nghị định 116), lưu ý hồ sơ cần có: UBND cấp xã phải lập danh sách người cai nghiện tự nguyện; phân công cán bộ quản lý theo dõi đánh giá kết quả đối với người cai nghiện. Niêm yết công khai tại điểm địa đăng ký cai nghiện danh sách cá nhân, tổ chức có điều kiện cung cấp dịch vụ cai nguyện tại gia đình, cộng đồng. Yêu cầu các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ cai nghiện niêm yết công khai, minh bạch về các nội dung: loại dịch vụ, quy trình thực hiện dịch vụ cai nghiện, giá dịch vụ…Chủ tịch UBND có trách nhiệm cấp giấy xác nhận hoàn thành cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng. Đối với trường hợp quản lý sau cai nghiện ma túy tại nơi cư trú được thực hiện theo Điều 77 và Điều 78 Nghị định 116 hồ sơ bao gồm: Văn bản đề nghị của Trưởng công an cấp xã, giấy xác nhận hoàn thành cai nghiện ma túy tự nguyện và Quyết định quản lý sau cai nghiện ma túy này phải gửi cho người sau cai nghiện hoặc đại diện gia đình người sau cai nghiện hoặc người đại diện theo pháp luật.
Ngoài trường hợp nêu trên, việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma tuý được quy định cụ thể tại Chương IV Nghị định số 105/2021/NĐ-CP ngày 04/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng chống ma tuý. Những trường hợp này, nếu đang trong thời hạn 02 năm kể từ ngày hết thời hạn quản lý sau cai nghiện và đang trong thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma tuý (khoản 1 Điều 43 Nghị định số 105) thì sẽ thuộc đối tượng điều chỉnh tại điểm c khoản 1 Điều 256a BLHS.
.jpg)
Hình ảnh minh họa đối tượng Tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt quả tang
Một số tình huống pháp lý phát sinh trong thực tiễn:
Do hiện tại BLHS đã quy định tội Sử dụng trái phép chất ma túy, trong thực tiễn giải quyết một số vụ án về Tàng trữ trái phép chất ma túy và Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 249 và 255 BLHS đã phát sinh một số quan điểm đường lối xử lý khác nhau, ví dụ:
Tình huống pháp lý thứ nhất: Bắt quả tang một đối tượng đang sử dụng trái phép ma túy. Giám định kết luận trong nước tiểu có ma túy đã thu giữ. Lượng ma túy đã thu giữ khi bắt quả tang xảy ra một trong hai trường hợp: (1) trường hợp lượng ma túy dưới mức tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; (2) trường hợp lượng ma túy thu giữ đủ để khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và nhân thân đối tượng này thỏa mãn quy định tại điểm a, b, c, d Điều 256a BLHS. Thì xử lý người này về một hay hai tội.
Tình huống pháp lý thứ hai: A, B, C và D đang tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang. Quá trình điều tra đã làm rõ có đủ căn cứ để xử lý A, B,C D về hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Kết quả giám định nước tiểu xác định A, B, C và D đã có chất ma túy như đã thu giữ trong quá trình bắt quả tang. Trong đó A và B về nhân thân đã thỏa mãn một trong các điểm a, b, c, d Điều 256a BLHS. Vậy trong trường hợp này xử lý A và B một tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hay hai tội Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội Sử dụng trái phép chất ma túy.
Quan điểm của tác giả:
Đối với tình huống pháp lý thứ nhất: Tham khảo khái niệm tại Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định: Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Khách thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi phạm tội xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy.
Đối với tội Sử dụng trái phép chất ma túy hành vi khách quan được quy định tại điểm 10 khoản 1 Điều 2 Luật phòng chống ma túy đó là “người sử dụng trái phép chất ma túy là người có hành vi sử dụng chất ma túy mà không được sự cho phép của người hoặc cơ quan chuyên môn có thẩm quyền và xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể có kết quả dương tính” đồng thời người đó phải thỏa mãn những điều kiện về nhân thân quy định tại điểm a, b, c, d Điều 256a BLHS. Khách thể bị xâm phạm tội này là: Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy; cai nghiện ma túy theo Luật phòng chống ma túy.
So sánh hai điều luật này thì thấy rằng kể cả khách thể và hành vi khách quan của hai tội là hoàn toàn khác nhau, ban đầu phải là hành vi tàng trữ trái phép thì mới có hành vi sử dụng. Ở đây người phạm tội đã thực hiện một chuỗi hành vi, hành vi tàng trữ là tiền đề để thực hiện hành vi sử dụng. Áp dụng công văn số 233 ngày 01/10/2019 về trao đổi nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao quy định về việc xử lý trường hợp người thực hiện một hoặc nhiều hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm của nhiều tội “Trường hợp người thực hiện nhiều hành vi (chuỗi hành vi) một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, trong đó, hành vi trước là tiền đề, điều kiện để thực hiện hành vi sau thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về nhiều tội tương ứng với từng hành vi, nếu mỗi hành vi đều có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm”.
Như vậy, ở tình huống thứ nhất nếu như:
-Nếu lượng ma túy thu giữ mà đủ căn cứ để khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, kể cả trong trường hợp đối tượng đã dùng; hoặc đang dùng; hoặc đang chuẩn bị những công cụ, phương tiện, địa điểm để sử dụng trái phép chất ma túy (phạm tội chưa đạt) thì vẫn khởi tố đối tượng này về hai tội là Tàng trữ trái phép chất ma túy và Sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại điều 249 và 256a BLHS.
-Nếu như lượng ma túy thu giữ không đủ căn cứ để khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy thì đương nhiên sẽ chỉ khởi tố một tội về Sử dụng trái phép chất ma túy. Bởi vì nghĩa vụ chứng minh là nghĩa vụ của cơ quan điều tra; xuất phát từ nguyên tắc có lợi cho người phạm tội có thể người phạm tội mua lượng ma túy đủ để khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng do người này đã dùng một phần và cơ quan điều tra không thể chứng minh được phần đã dùng là bao nhiêu và phần còn lại không đủ để khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy thì sẽ không xem xét xử lý về tội này (trừ trường hợp mặc dù thu giữ không đủ lượng nhưng có căn cứ khác như tin nhắn, tài khoản…chứng minh được lượng ma túy đã mua để sử dụng). Chính từ việc không chứng minh được chúng ta phải chấp nhận một thực tế xung đột pháp lý đó là: một người chưa sử dụng hết ma túy thì có thể bị xử lý về hai tội, còn một người sử dụng hết thì chỉ bị xử lý về một tội (phạm tội chưa đạt thì bị xử lý nặng hơn tội phạm hoàn thành).
Đối với tình huống pháp lý thứ hai:
Hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hiện tại vẫn áp dụng tinh thần của tiểu mục 6.1, mục 6 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLTBCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999 hướng dẫn thì “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và Tiểu mục 1 Mục 1 Công văn 89/TANDTC-PC năm 2020 của Tòa án nhân dân tối cao quy định tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiện; cung cấp ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ… để thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy, Khách thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội và sức khỏe cộng đồng, đặc biệt ảnh hưởng đến tính mạng, thể chất và tinh thần của con người,
Cũng như sự phân tích trên thì khách thể và hành vi khách quan giữa hai tội Sử dụng trái phép chất ma túy và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hoàn toàn khác nhau. Trong trường hợp này vẫn áp dụng Công văn số 233 ngày 01/10/2019 của Tòa án nhân dân tối cao vì đây là một chuỗi hành vi phạm tội nên cần phải xem xét xử lý A và B về hai tội là tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội Sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 255 và Điều 256a BLHS.
Đối với trường hợp tại hiện trường các đối tượng đang tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà bị lực lượng chức năng bắt quả tang. Khối lượng chất ma túy thu giữ đủ định lượng theo khoản 1 Điều 249 BLHS và các đối tượng này xác định sẽ sử dụng 1 lần đến hết, nhưng chưa sử dụng hết thì bị bắt quả tang. Căn cứ vào công văn số 2667/VKSNDTC-V4 ngày 12/6/2025 của Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy VKSND tối cao, Câu 71 Tập tài liệu trao đổi một số vướng mắc trong áp dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay của VKSND tối cao. Vận dụng điểm 7 phần I của Công văn số 89 ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao thì chỉ xem xét xử lý các đối tượng trên về Tội tổ chức trái phép chất ma túy. Một vấn đề đặt ra ở đây là tại sao hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy lại không được thu hút vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Bởi vì hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn của liên ngành trung ương. Bên cạnh đó khách thể xâm hại của tội Sử dụng trái phép chất ma túy hoàn toàn khác với khách thể của tội Tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đồng thời chủ trương của Đảng và nhà nước trong giai đoạn hiện nay cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những trường hợp quản lý và cai nghiện ma túy không thành công . Vì vậy ngoài tội bị khởi tố về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thì A và B còn bị khởi tố thêm tội Sử dụng trái phép chất ma túy.
Trên đây là khó khăn vướng mắc trong quá trình xử lý giải quyết các vụ việc, vụ án liên quan đến hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, rất mong đồng nghiệp cùng nghiên cứu và trao đổi quan điểm.
Tác giả: Nguyễn Minh Tiến - Viện KSND khu vực 2