Xác định thiệt hại trong các vụ án hình sự về kinh tế là một khâu nghiệp vụ đặc biệt quan trọng, không chỉ giúp xác định yếu tố hậu quả – cấu thành của nhiều tội danh, mà còn làm căn cứ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự, dân sự và xử lý tài sản liên quan. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hiện vẫn còn nhiều vướng mắc trong nhận thức và áp dụng pháp luật liên quan đến vấn đề này, dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các vụ án kinh tế – đặc biệt trong bối cảnh loại tội phạm này ngày càng phức tạp, tinh vi, gắn với lĩnh vực chuyên môn sâu. Do đó, việc nhận diện và tháo gỡ các vướng mắc nhận thức không chỉ là yêu cầu trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan giám định và cả cơ quan xây dựng pháp luật. Chúng ta cùng xem xét tình huống sau:
Khu đất ao thùng giáp đê sông thuộc địa phận xã A có diện tích là 95.000 m2 thuộc quỹ đất 5% do UBND xã A quản lý; từ năm 1994 đến năm 2016 do gia đình ông Nguyễn Văn K là sử dụng đất theo hình thức được UBND xã A ký hợp đồng cho thuê đất thời hạn 50 năm, đã được UBND huyện K đồng ý và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thời hạn đến năm 2044. Ngày 16/3/2016, gia đình ông đã có đơn xin trả lại đất.
Gia đình ông K đã thực hiện trả tiền thuê đất đến hết năm 2004, trong 11 năm sau đó (từ năm 2005 đến hết năm 2015) gia đình ông K chưa nộp tiền thuê đất. Năm 2016 gia đình ông K có đơn xin trả đất thì UBND xã A mới thu được số tiền thuê đất từ năm 2005 đến hết năm 2015 vào ngày 23/02/2016 số tiền là 600.000.000 đồng. Theo quy định của Luật Ngân sách thì UBND xã A truy thu được số tiền thuê đất khu Thùng đào vào ngày 23/02/2016 với số tiền 600.000.000 đồng là đúng quy định và là nguồn tăng thu hợp pháp năm 2016 của Ngân sách xã được hưởng 100%, để thực hiện các nhiệm vụ chi cân đối theo quy định và thực hiện quản lý qua Kho bạc Nhà nước, nội dung thu Ngân sách thuộc Chương 805, mục 3900, tiểu mục 3901.
Tuy nhiên, toàn bộ số tiền 600.000.000 đồng được UBND xã A để ngoài sổ sách kế toán Ngân sách xã. Năm 2016, ông Bùi Duy Đ – Chủ tịch xã đã chỉ đạo Kế toán và Thủ quỹ không nhập số tiền này vào Ngân sách xã mà sử dụng để chi hết cho các hoạt động của Ủy ban xã trong dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập xã và chi cho các hoạt động thẩm định, chào mừng xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
Đối với xác định thiệt hại trong vụ việc nêu trên, quá trình giải quyết có nhiều quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Khoản tiền 600.000.000 đồng mà UBND xã A đã thu là nguồn thu hợp pháp của Ngân sách xã (được hưởng 100%) và UBND xã phải có trách nhiệm hạch toán thu Ngân sách, nộp vào tài khoản Ngân sách xã tại Kho bạc Nhà nước huyện năm 2016, thuộc Chương 805, 857, mục 3600, tiểu mục 3601 để thực hiện các nhiệm vụ chi Ngân sách xã dưới sự kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước và thẩm định quyết toán thu – chi của Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện theo đúng quy định. Tuy nhiên, UBND xã A đã để ngoài sổ sách kế toán, sử dụng để chi hết cho các nội dung không đúng nhiệm vụ chi, gây thiệt hại nguồn thu Ngân sách xã toàn bộ số tiền là 600.000.000 đồng. Việc chi tiêu số tiền trên mặc dù cho các hoạt động chung của UBND xã nhưng không đúng nhiệm vụ chi nên không được trừ vào số tiền thiệt hại, xác định toàn bộ số tiền 600.000.000 triệu là thiệt hại của vụ án để định tội và định khung hình phạt.
Quan điểm thứ hai nhất trí với quan điểm thứ nhất khi cho rằng việc chi không đúng nhiệm vụ chi, tuy nhiên là chi vào các công việc chung, cần thiết của UBND xã, không có việc tư lợi. Do đó các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét đối trừ một phần số tiền mà Ủy ban xã đã chi hợp lý, chỉ tính thiệt hại đối với số tiền chi vượt quá quy định để định khung hình phạt.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Việc UBND xã bỏ số tiền thu được ngoài sổ sách kế toán là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên cần phải trưng cầu có cơ quan chuyên môn tài chính giám định xác định thiệt hại, Cơ quan tiến hành tố tụng không thể tự mình xác định được.
Đối với giám định trong giải quyết vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế, hiện nay có Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 13/12/2017 quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong giải quyết vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế. Tại khoản 2 điều 3 Thông tư về Nguyên tắc trưng cầu giám định, đánh giá và sử dụng kết luận giám định quy định: “Ngoài những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 206 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định theo Thông tư liên tịch này chỉ được thực hiện khi chưa có đủ chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra”.Tại khoản 6 Điều 4 của Thông tư về Những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định quy định: “Khi cần xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế, tài chính, kế toán, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán, đất đai, tài nguyên, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi và các lĩnh vực khác khi xét thấy cần thiết”.
Liên quan đến tình huống nêu trên, quá trình giải quyết các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa thống nhất nhận thức về xác định thiệt hại và giám định thiệt hại. Nếu như quan điểm thứ nhất cho rằng Ủy ban nhân dân A đã vi phạm hoàn toàn quy định về quản lý và sử dụng ngân sách, do đó toàn bộ số tiền đã chi sai nguyên tắc là thiệt hại, không cần xem xét đến việc chi vào việc gì. Quan điểm thứ hai cho rằng việc chi là sai về hành vi, nhưng thiệt hại cần phải trừ đi các khoản hợp lý vì đều là chi tiêu vào các hoạt động chung của Ủy ban xã, không thể tính tất cả là thiệt hại trong khi Ủy ban xã là người được thụ hưởng. Quan điểm thứ ba cho rằng Cơ quan tiến hành tố tụng không phải là cơ quan chuyên môn trong lĩnh vực tài chính nên không thể xác định được khoản nào là chi hợp lý, chi vượt mức để trừ, mà việc đó phải trưng cầu cơ quan tài chính giám định xác định mới đảm bảo căn cứ pháp lý. Cơ quan điều tra đã trưng cầu Sở tài chính giám định xác định thiệt hại, tuy nhiên các cơ quan chuyên môn trả lời do không đủ tính pháp lý và chứng từ chi không đúng theo quy định của Luật kế toán, Luật ngân sách nên không có căn cứ để xác định cụ thể số tiền gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước.
Qua tình huống nêu trên cho thấy do chưa nhận thức thống nhất và chưa có hướng dẫn cụ thể trong việc xác định thiệt hại cũng như công tác giám định trong các vụ án kinh tế. Bản thân Thông tư liên tịch 01 cũng chỉ quy định chung chung như chỉ giám định “khi chưa có đủ chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” và “ khi xét thấy cần thiết” nên quá trình áp dụng còn nhiều mâu thuẫn, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử.
Từ những khó khăn vướng mắc nêu trên, cần hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn chuyên ngành theo hướng ban hành hướng dẫn cụ thể về xác định thiệt hại kinh tế trong một số tội danh phổ biến; làm rõ trường hợp nào bắt buộc phải giám định, trường hợp nào không cần. Tăng cường đào tạo, thống nhất nhận thức giữa các cơ quan tố tụng, mở các lớp tập huấn liên ngành về giám định thiệt hại, thống nhất quy trình trưng cầu và sử dụng kết luận giám định. Xây dựng bộ tiêu chí kỹ thuật, chuẩn giám định thiệt hại trong từng lĩnh vực, tránh việc mỗi nơi hiểu và làm một cách./.
Bùi Thảo- Phòng 1 - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh