CHUYÊN MỤC / Hoạt động kiểm sát

Có phải trưng cầu giám định tâm thần đối với VVS không?

10/10/2025 | 91

Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 21/10/2024. Cơ quan điều tra bắt quả tang, vật chứng thu giữ tại lòng bàn tay trái của VVT 01 túi nilon dạng túi zip màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 02 viên nén không rõ hình dạng màu xám. Kết luận giám định chất tinh thể màu trắng có khối lượng 0,769 gam là ma túy loại Ketamine và 02 viên nén có khối lượng 0,782g là ma túy loại MDMA. Đấu tranh T khai mua của VVS, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của S thu giữ 0,304 gam ma túy loại Ketamine. S đã thừa nhận bán ma túy cho T. Cơ quan điều tra đã khởi tố S về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 và T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự.

              

    Hình ảnh các đối tượng và vật chứng được thu giữ  

Quá trình điều tra xác định thời điểm trước 2024, S đã từng bị nghiện chất ma túy, năm 2024, S nhiều lần sử dụng bóng cười (N20). Đến ngày 04/7/2024 S đã điều trị tại Viện sức khỏe tâm thần - Bệnh viện Bạch mai 14 ngày ra viện vào ngày 17/7/2024 bệnh án xác định S bị: Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng dung môi dễ bay hơi (N20) hay còn gọi là Bóng cười mã bệnh F18.5. Ra viện với tình trạng đỡ. Kết quả xác minh với những người thân trong gia đình, hàng xóm, bạn bè và bản thân S đều khẳng định từ khi điều trị về không sử dụng bóng cười, mọi hành vi trong sinh hoạt và lao động như những người bình thường khác.

Sau khi khởi tố S về tội Mua bán trái phép chất ma túy, có hai quan điểm đặt ra là có phải trưng cầu giám định tâm thần đối với S hay không?

Quan điểm thứ nhất: Theo quy định tại Điều 21 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2025, người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình là người trong tình trạng không có năng lực TNHS. Do đó cần thiết phải tiến hành trưng cầu giám định tâm thần đối với S bởi vì: S đã từng bị điều trị về bệnh tâm thần, khi ra viện chỉ ở tình trạng đỡ, chưa có căn cứ khoa học để khảng định chắc chắn là S đã thực sự khỏi bệnh, việc những người thân, bạn bè hoặc ngay chính S khẳng định hiện tại hoàn toàn bình thường là chỉ do cảm tính. Vì vậy, để làm rõ khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi của S trước, trong và tại thời điểm giám định như thế nào. Nếu như bệnh án xác định S bị rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng chất ma túy dẫn đến hạn chế khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi thì trong quá trình xét xử cần áp dụng điểm q khoản 1 Điều 51 BLHS “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” cho bị cáo. Nếu như bị cáo bị mất năng lực nhận thức và hành vi cần áp dụng biện pháp tư pháp Bắt buộc chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

Quan điểm tác giả: Theo Điều 13 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2025 quy định: “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu TNHS”. Như vậy, theo kết cấu của điều luật thì “dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác” không phân biệt tự mình dùng hay ngay cả trong tình huống bị ép buộc dùng thì vẫn phải gánh chịu hậu quả pháp lý khi gây ra hành vi nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Từ những căn cứ pháp lý trên việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 BLHS “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” theo quan điểm của tác giả thì chỉ những người mắc bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức là người khi phạm tội họ mắc một bệnh mà bệnh đó làm cho họ nhận thức không đầy đủ được tính chất nguy hiểm về hành vi của mình, cũng như hậu quả của hành vi do mình gây ra. Pháp luật chỉ thừa nhận và giảm nhẹ hình phạt cho họ nếu như bệnh đó do bẩm sinh hoặc do những tác động khách quan đưa đến. Nếu do tự họ gây ra thì không được giảm nhẹ; người mắc bệnh bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình là trường hợp họ vẫn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó, nhưng họ không điều khiển được hành vi theo ý muốn (hạn chế về hoạt động cơ học của cơ thể). Ví dụ: có hành động nhưng không được như ý muốn. Do S tự đưa bản thân vào tình trạng bị bệnh tâm thần là do dùng khí cười, nên trong lần phạm tội này không cần thiết phải trưng cầu giám định tâm thần đối với S.

Trên đây là quan điểm cá nhân của tác giả đối với vụ án nêu trên, rất mong nhận được sự trao đổi, góp ý của các đồng nghiệp./.

                                Tác giả Nguyễn Minh Tiến- Viện KSND khu vực 2- Hưng Yên


Thông tin nội bộ