CHUYÊN MỤC / Tin trong ngành

Vướng mắc trong nhận thức và áp dụng pháp luật khi định tội giữa tội “Trốn thuế” và tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”

03/11/2025 | 49

Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hoạt động kế toán và quản lý thuế ngày càng đóng vai trò trọng yếu trong việc bảo đảm tính minh bạch, trung thực của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian qua cho thấy nhiều vụ án có hành vi doanh nghiệp không ghi chép sổ sách kế toán, để ngoài sổ kế toán tài sản hoặc doanh thu đang đặt ra vấn đề nhận thức và áp dụng pháp luật chưa thống nhất. Một số vụ án bị xử lý về tội “Trốn thuế” theo Điều 200 Bộ luật Hình sự, trong khi các vụ án với hành vi tương tự ở địa phương khác lại bị xử lý về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 221. Sự thiếu thống nhất này phản ánh vướng mắc trong nhận định bản chất hành vi và ranh giới giữa hai tội danh. Bài viết này nhằm phân tích cơ sở pháp lý, chỉ ra nguyên nhân của vướng mắc trong định tội, đồng thời đề xuất hướng hoàn thiện nhằm bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự về lĩnh vực kinh tế.

Cơ sở pháp lý của hai tội danh

Tội “Trốn thuế” theo khoản 1 Điều 200 BLHS 2015 quy định: “1.Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm”

Các hành vi bao gồm: không nộp hồ sơ khai thuế; khai sai làm giảm số thuế phải nộp; không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế phải nộp; lập hóa đơn, chứng từ giả… Như vậy, về mặt khách quan, việc không ghi chép sổ kế toán, để ngoài sổ kế toán tài sản hoặc doanh thu là một trong những hành vi để trốn thuế.

Tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” – Điều 221 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

 “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

Hành vi vi phạm bao gồm: giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán; cung cấp thông tin số liệu kế toán sai sự thật; đề ngoài sổ sách kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán; lập hai hệ thống sổ kế toán nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tái sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị kế toán.

Như vậy, hành vi để ngoài sổ sách kế toán tài sản (có thể chính là doanh thu) cũng chính là hành vi khách quan của tội này.

Vướng mắc trong nhận thức và thực tiễn định tội

Trên thực tế, hành vi “không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế phải nộp” hoặc “không ghi chép sổ kế toán, để ngoài sổ kế toán tài sản” có thể xuất hiện trong cả hai tội. Về lý thuyết, khi doanh nghiệp cố tình không ghi nhận doanh thu để giảm nghĩa vụ thuế, thì hành vi vi phạm kế toán chỉ là phương tiện của tội trốn thuế. Ngược lại, nếu hành vi đó chỉ nhằm che giấu thua lỗ, gian dối trong báo cáo tài chính hoặc tài sản không thuộc đối tượng chịu thuế, không có yếu tố trốn thuế, thì cần xác định là tội vi phạm quy định về kế toán. Tuy nhiên, ranh giới này không dễ xác định. Cùng một hành vi kế toán sai phạm, nhưng tùy theo cách nhìn nhận mục đích và hậu quả, có thể dẫn đến định tội khác nhau. Chúng ta cùng xem xét tình huống dưới đây:

Công ty TNHH thương mại và dịch vụ LV chuyên kinh doanh các sản phẩm thời trang. T ngày 01/01/2023 đến 30/6/2025, Công ty LV đã phát sinh tổng doanh thu từ bán sản phẩm thời trang cho khách hàng số tiền là 12 tỷ đồng, trong đó giám đốc Nguyễn Văn L đã chỉ đạo cho Kế toán Trần Thị B chỉ ghi chép trong hệ thống sổ sách kế toán của đơn vị doanh thu 4 tỷ và thực hiện việc kê khai thuế với số tiền này. Còn lại 8 tỷ không phản ánh trong sổ sách kế toán, không kê khai thuế, tương ứng với số thuế phải nộp là 800 triệu đồng.

Như vậy có thể thấy, cùng là hành vi “không ghi chép trong sổ sách kế toán, để ngoài sổ sách kế toán tài sản của đơn vị” đối với số tiền 8 tỷ đồng như tình huống đã nêu trên được mô tả trong cấu thành của 2 tội danh. Có quan điểm cho rằng bản chất của việc che giấu số tiền 8 tỷ đồng để không phải kê khai và nộp thuế số tiền 800 triệu đồng, do đó hành vi của Giám đốc và kế toán phạm vào tội “ Trốn thuế” theo khoản 2 của Điều 200 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt là phạt tiền từ 500 triệu đồng đến 1tỷ đồng hoặc phạt tù từ 1 đến 5 năm. Nhưng quan điểm khác cho rằng đây là hành vi được mô tả trong cấu thành của tội “ Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, số tiền 800 triệu trốn thuế là số tiền thiệt hại cho Nhà nước, do đó cần phải bị xử lý theo khoản 2 Điều 221, có khung hình phạt từ 3 đến 12 năm. Như vậy, chỉ cần quan điểm khác nhau thì sẽ xử lý các đối tượng phạm tội ở tội danh khác nhau. Sự thiếu thống nhất này không chỉ mất công bằng giữa các đối tượng bị xử lý (do khung hình phạt của tội Vi phạm về kế toán cao hơn nhiều so với tội Trốn thuế), ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm kinh tế mà còn làm giảm tính dự đoán của pháp luật.

Nguyên nhân của vướng mắc và giải pháp

Có thể nhận thấy, vướng mắc trong nhận thức và áp dụng pháp luật đối với hành vi nêu trên có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, đó là thiếu văn bản hướng dẫn liên ngành giữa cơ quan tố tụng và cơ quan thuế, tài chính về ranh giới giữa hai tội danh. Thứ hai, hệ thống pháp luật về kế toán và thuế còn chồng chéo, khi cùng điều chỉnh hành vi ghi chép, kê khai tài chính – kế toán, khiến việc phân biệt bản chất hành vi vi phạm gặp khó. Thứ ba, công tác giám định kế toán, tài chính trong các vụ án kinh tế còn hạn chế, dẫn đến việc xác định hậu quả chủ yếu dựa vào đánh giá chủ quan của Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên.

Từ những vướng mắc nêu trên, liên ngành tố tụng Trung ương, đặc biệt ngành Tòa án cần có các văn bản hướng dẫn về tiêu chí phân biệt giữa tội “Trốn thuế” và tội “Vi phạm quy định về kế toán”, đặc biệt trong các trường hợp hành vi có tính chất chồng lấn; đưa các vụ án điển hình thành án lệ để áp dụng. Tăng cường giám định kế toán – tài chính độc lập, nhằm cung cấp căn cứ khách quan cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định hậu quả và bản chất hành vi. Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan kiểm sát, điều tra trong việc phát hiện, thu thập chứng cứ và đánh giá mục đích hành vi vi phạm.

Ranh giới giữa tội “Trốn thuế” và tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” trong thực tiễn không chỉ mang tính lý luận mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc định tội, định khung hình phạt và chính sách xử lý hình sự đối với doanh nghiệp. Việc phân biệt đúng bản chất hành vi là yêu cầu thiết yếu để bảo đảm nguyên tắc “xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”, đồng thời góp phần xây dựng môi trường pháp lý minh bạch, công bằng trong hoạt động kinh tế. Sự thống nhất trong nhận thức và hướng dẫn áp dụng pháp luật là điều kiện quan trọng nhằm hạn chế sai sót trong định tội, tránh tình trạng  bỏ lọt tội phạm, làm oan người không phạm tội./.

                                                                         Bùi Thảo - Phòng 1 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh


Thông tin nội bộ