Vụ án dân sự phúc thẩm do bà Hoàng Thị Ngọc Tú được phân công kiểm sát giải quyết về việc "Tranh chấp quyền sử dụng đất" giữa:
- Nguyên đơn: Ông Trần Văn Tần. Người được nguyên đơn ủy quyền: Ông Nguyễn Đắc Thực - Luật sư.
- Bị đơn: Ông Dương Văn Tuyên.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Dương Văn Thụy; Bà Bùi Thị Mạn; Anh Dương Văn Điềm; Anh Dương Đức Mạnh; Bà Phan Thị Cự; Bà Dương Thị Nhị; Ông Dương Văn Tuyến (tên gọi khác là Quỳnh).

Kiểm sát viên tại phiên tòa
Nội dung vụ án như sau:
Trước năm 1983, mẹ đẻ của ông Trần Văn Tần là bà Phan Thị Ngoan được cụ Phan Văn Hạp và cụ Phạm Thị Loan (là ông bà ngoại của ông Tần) cho 4 miếng đất ở thôn 3, xã Quảng Châu. Sau đó bà Ngoan lại mua của cụ Hạp 7 miếng đất, ông Tần mua của ông Phan Văn Nho (con trai cụ Hạp) 5 miếng đất. Tổng số diện tích đất của gia đình ông Tần sử dụng tính đến năm 1983 là 1,6 sào đều ở thôn 3, xã Quảng Châu. Ngày 14/01/1983, 5 gia đình có chung ngõ gồm gia đình cụ Hạp (ông Phẩm đại diện), ông Nho, ông Tần, ông Dương Văn Quỳnh và ông Dương Văn Điềm có làm đơn đề nghị gửi UBND và Ban quản lý ruộng đất xã Quảng Châu với nội dung: các hộ đó bàn bạc thống nhất bỏ ra 1 phần diện tớch đất của gia đỡnh để làm ngừ đi chung, gồm ông Tần 10,8 m2, cụ Hạp 80,5 m2, ông Thiều 8m2, tổng là 99,3 m2, đề nghị xin giảm thuế đối với phần diện tích đất trên. Năm 1987, ông Tần mua lại của ông Thiều 2 sào đất. Tính đến năm 1987, gia đình ông Tần có 3,6 sào đất, bao gồm cả ngõ, rãnh và ao tại thôn 3, xã Quảng Châu, huyện Phù Tiên, tỉnh Hải Hưng (nay là thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên). Năm 1997, Nhà nước thực hiện đo đất theo hiện trạng, sau khi trừ ngõ đi thì diện tích đất của gia đình ông Tần còn lại là 1282 m2 gồm 3 thửa tại bản đồ số 08, cụ thể: thửa số 121 là 21 m2, thửa 145 là 1154 m2, thửa số 146 là 107 m2. Đến năm 2000 thỡ diện tích đất này được UBND huyện Tiên Lữ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Tần.
Ngày 15/10/2005, ông Tần, ông Tuyên, ông Dương Văn Tuyến, ông Phan Văn Toan đã lập văn bản thống nhất giải quyết ngõ đi. Ông Toan, ông Tuyên đã lợi dụng văn bản này xin chữ ký của các hộ liền kề, phô tô xin đóng dấu của UBND xã Quảng Châu nhằm chiếm đoạt phần đất của gia đình ông Tần.
Ông Tần làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông Tuyên phải trả lại phần diện tích đất đã lấn chiếm của gia đình ông khoảng 50m2 và 1 ngõ đi rộng 1,2m, dài 13,2m, đồng thời đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hưng Yên xem xét hủy bỏ các văn bản thỏa thuận ngày 14/01/1983 và ngày 15/10/2005.

Toàn cảnh phiên tòa
Vụ án đã được Tòa án nhân dân thành phố Hưng Yên giải quyết và quyết định: Không chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu hủy văn bản giải quyết ngõ đi (đơn đề nghị) ngày 14/01/1983 và yêu cầu buộc ông Tuyên trả lại đất lấn chiếm. Chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất (văn bản thống nhất giải quyết ngõ đi) ngày 15/10/2005. Buộc các ông Trần Văn Tần, Dương Văn Tuyên, Dương Đức Mạnh phải khôi phục nguyên trạng ngõ đi cũ.
Ngày 23/11/2014, ông Tuyên, ông Dương Văn Thụy (bố ông Điềm), ông Tuyến, bà Phan Thị Cự (vợ ông Tuyên), anh Điềm, anh Mạnh làm đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm về việc hủy bỏ văn bản thống nhất giải quyết ngõ đi lập ngày 15/10/2005.
Ngày 01/12/2014, ông Tần làm đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng: Buộc ông Tuyên phải trả diện tích đất đã sử dụng bất hợp pháp, tuyên hủy văn bản lập năm 1983.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 21/5/2015, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên có quan điểm hủy Bản án dân sự sơ thẩm sè 15/2014/DSST ngµy 20/11/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hưng Yên vì những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
Cụ thể: Theo nội dung đơn khởi kiện của ông Tần ngày 15/4/2013 thì ông đề nghị Tòa án buộc ông Dương Văn Tuyên phải trả cho ông diện tích đất khoảng 50m2, Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý giải quyết vụ án, xác định quan hệ tranh chấp là "Tranh chấp quyền sử dụng đất" là đúng. Tuy nhiên, đến ngày 30/9/2013 ông Tần nộp đơn khởi kiện bổ sung, ngoài nội dung đã khởi kiện ban đầu, ông Tần đề nghị Tòa án hủy các văn bản thỏa thuận ngày 14/01/1983 và ngày 15/10/2005. Đây là nội dung vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, Tòa áp cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự nộp tạm ứng án phí, vì vậy, yêu cầu này của đương sự không thuộc phạm vi khởi kiện. Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2014/DSST ngày 20/11/2014 xác định quan hệ tranh chấp là "Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi và tranh chấp quyền sử dụng đất" là không chính xác. Trong phần quyết định của bản án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên: Không chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn ông Trần Văn Tần về việc hủy văn bản giải quyết ngõ đi ngày 14/01/1983 và yêu cầu buộc ông Tuyên trả lại đất lấn chiếm; Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Tần về việc hủy hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất ngày 15/10/2005... Quyết định này vượt quá phạm vi khởi kiện của nguyên đơn, vi phạm Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: " Tòa án chỉ giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó".
Mặt khác, nếu Tòa án thụ lý đơn khởi kiện bổ sung của nguyên đơn thì bị đơn trong vụ án này còn là những người có tên trong các văn bản thỏa thuận nguyên đơn yêu cầu hủy, việc Tòa án chỉ xác định ông Dương Văn Tuyên là bị đơn là chưa đầy đủ, đồng thời quan hệ tranh chấp Tòa án cấp sơ thẩm xác định như trên là không chính xác. Quá trình giải quyết, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn còn yêu cầu ông Tuyên phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản (cụ thể là 1 cây nhãn cổ). Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa giải thích, hướng dẫn, yêu cầu đương sự làm thủ tục khởi kiện bổ sung đối với yêu cầu này, chưa xác minh, làm rõ về tài sản này...
Ngoài ra, một số thủ tục tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án chưa đảm bảo đúng quy định của pháp luật: Biên bản hòa giải tranh chấp tại xã không có đủ chữ ký của các thành phần tham gia, không có đại diện của UBMTTQ xã; Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định định giá tài sản không có căn cứ (các bên đương sự không yêu cầu và không có thỏa thuận gì về giá trị tài sản tranh chấp) , vi phạm Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trên cơ sở đề nghị của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên đã tuyên hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm xét xử lại.
Kết thúc phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên đã tổ chức họp rút kinh nghiệm. Qua đó, giúp cho cán bộ, kiểm sát viên nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.