CHUYÊN MỤC / Hoạt động kiểm sát

Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6- Hưng Yên thực hiện quyền kháng nghị bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất

23/10/2025 | 80

Thực hiện chủ trương của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên về việc tiếp tục nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân &gia đình, lao động, hành chính, kinh doanh thương mại và các việc khác, kịp thời phát hiện vi phạm để ban hành kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm nhằm bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6- tỉnh Hưng Yên đã chủ động, kiên quyết thực hiện có hiệu quả quyền kháng nghị phúc thẩm theo quy định của pháp luật đối với Bản án có vi phạm nghiêm trọng.

Hình ảnh tại phiên tòa

Ngày 13/10/2025, Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6, tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNPT-VKS-DS đối với Bản án dân sự sơ thẩm xét xử về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Phan Văn T và bị đơn ông Hoàng. V. N và  bà Vũ. Th. T. cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Theo lời trình bày của các đương sự và biên bản xác minh tại UBND xã Đ, tỉnh Hưng Yên, có đủ cơ sở để xác định:

Cụ P.V. S (chết ngày 22/01/1987), cụ N. T. Nh (chết ngày 23/01/1991), vợ chồng cụ P.V. S và cụ N. T. Nh sinh được 08 người con (gồm ông Th, ông Phan Văn  T- Nguyên đơn, bà L, bà Kh, bà X, bà L, bà N, bà T) ngoài ra hai cụ không có con nào khác. Khi còn sống hai cụ tạo dựng được khối tài chung gồm:Theo bản đồ 299 và sổ mục kê là thửa đất 422, diện tích 420 m2 đất thổ; thửa đất 423, diện tích 220 m2 đất ao mang tên ông P. V. S; Đo đạc bản đồ năm 1990 là: Thửa 3439 diện tích 252 m2 đất thổ và thửa số 736 diện tích 160 m2 đất ao người sử dụng P. V. S; thửa số 744 diện tích 198 m2 loại đất thổ chủ sử dụng là P. Đ. Đ; Bản đồ đo đạc Vlap năm 2014 là các thửa: Thửa đất 363 diện tích 618,3 m2 (400 m2đất ở và 218,3 m2đất trồng cây lâu năm) và thửa đất 364, diện tích 162,9 m2 đất nuôi trồng thuỷ sản, chủ sử dụng là ông Hoàng. V. Nh- Bị đơn. Các đơn sự đều xác định khi còn sống cụ P.V.S và  cụ N. T. Nh đã tách cho bà X và chồng bà X là ông P.Đ. Đ thửa đất 744 diện tích 198 m2 theo đo đạc năm 1990.

Ngày 11/8/1991 giữa gia đình bà X, ông ông P.Đ. Đ đã lập biên bản đổi đất, theo đó ông ông P.Đ. Đ, bà X đã đổi toàn bộ 2 thửa đất theo đo đạc bản đồ 299 mang tên cụ P.V.S để lấy 251m2 đất (Theo bản đồ 299, là một phần của 2 thửa đất, thửa 452 (T) có diện tích 685 m2 và thửa 523 (A) có diện tích 430 m2 mang tên ông Hoàng Hợp (bố đẻ ông Hoàng. V. Nh). Biên bản đổi đất được lập thành văn bản, có chữ ký của Chủ tịch, Ban địa chính, xóm trưởng và những gia đình liền kề.

Sau khi đổi đất, gia đình ông Hoàng. V. Nh chuyển về sinh sống, sử dụng đất ổn định đến nay. Ông Hoàng.V. Nh cho rằng, trong quá trình sử dụng đất thực hiện các quy định 652/1993 và Quyết định 948/2000 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình thì phần đất thổ thừa 344 m2 đất ao và trồng cây lâu năm đã được đối trừ vào đất trồng lúa ngoài đồng của gia đình ông. Ông giao nộp 01 đơn xác nhận gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ngày 11/4/2024 về nội dung này.

Ông P.Đ.Đ và bà X trình bày: ông bà thừa nhận có việc đổi đất cho ông Hoàng.V. Nh năm 1991, tuy nhiên ông bà chỉ đổi phần diện tích 198 m2 đất mang tên ông P. Đ. Đ theo đo đạc bản đồ năm 1990, tuy nhiên ông Hoàng.V. Nh không làm thủ tục bàn giao đất và nhà cho ông bà nên ông bà phải về đất của bố mẹ ông P. Đ. Đ để ở, nay ông bà không đổi đất nữa và đề nghị ông Hoàng.V. Nh trả đất cho 8 anh em bà X.

 Ông Nguyễn Ngọc Th trình bày: Năm 2005 ông mua lại nhà và đất của ông P. Đ. Đ, bà X phần đất có chiều dài nhất 28,8m, chiều rộng là 10m có ngõ đi vào rộng 2 m, dài 14,4 m với giá 60.000.000 đồng, việc mua bán hai bên viết giấy tay, không qua UBND xã. Năm 2018, vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Th đã bán mảnh đất nêu trên cho vợ chồng anh Hoàng Thế K và chị Hoàng Thị N với giá 140.000.000 đồng.

UBND xã Đ và Thanh tra huyện Tiền Hải đều xác nhận không còn lưu giữ hồ sơ về việc đổi đất và việc quy đổi đất theo các Quyết định 652, 948 do thất lạc tài liệu qua các thời kỳ.

Tại Bản án dân sự số 30/2025/DS-ST ngày 29/9/2025 của Tòa án nhân dân khu vực, tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T: Buộc ông Hoàng. V. Nh, bà Vũ. Th. T phải trả cho ông Phan Văn  T 202 m2 đất ở tại thửa đất số 3439 (T), bản đồ 1990, diện tích 252 m2, hiện nay là thửa đất 363, tờ bản đồ số 19, diện tích 589 m2 đất ONT, có địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, tỉnh Hưng Yên. Ông Phan Văn T được sử dụng ngõ đi chung là ngõ đi hiện tại gia đình ông Hoàng. V. Nh đang sử dụng (ngõ đi chung 44 m2 ký hiệu S4) có tứ cận như sau: Phía đông giáp thửa 361, phía tây giáp đất ông Hoàng .V. Nh và ngõ đi chung, phía bắc giáp giao thông, phía nam giáp các thửa 365, 367, 368 (ký hiệu S3 có sơ đồ kèm theo).

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T về việc buộc ông Hoàng. V. Nh, bà Vũ. Th. T phải trả cho ông Phan Văn T thửa đất số 736 (A), tờ bản đồ 1990, có diện tích 160 m2 mang tên P.V.S, hiện nay là thửa đất số 364, tờ bản đồ số 19, diện tích 177 m2 đất NTS, có địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, tỉnh Hưng Yên.

Ông Phan Văn T phải thanh toán cho ông Hoàng. V. Nh, bà Vũ. Th. T số tiền gồm tiền tài sản trên đất và tiền thanh toán ngõ đi chung là 22.041.166 đồng.

- Ông Hoàng. V. Nh, bà Vũ. Th. T được quyền sử dụng thửa đất số 736 (A), tờ bản đồ 1990, có diện tích 160 m2 mang tên P.V.S, hiện nay là thửa đất số 364, tờ bản đồ số 19, diện tích 177 m2 đất NTS, có địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, tỉnh Hưng Yên; có tứ cận như sau: Phía đông giáp đất ông Hoàng. V. Nh, phía tây giáp đất giao thông và ngõ đi chung, phía bắc giáp giao thông, phía nam giáp đất ông Hoàng. V. Nh (ký hiệu S1 có sơ đồ kèm theo). Ông Hoàng. V. Nh, bà Vũ. Th. T được quyền sử dụng 343 m2 đất (trong đó 198 m2 đất ở, 145 m2 đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 3439 (T), bản đồ 1990, diện tích 252 m2, hiện nay là thửa đất 363, tờ bản đồ số 19, diện tích 589 m2 đất ONT, có địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, tỉnh Hưng Yên, có ngõ đi chung 44 m2 ký hiệu S4, có tứ cận như sau: Phía đông giáp đất ông Phan Văn T, phía tây giáp đất ao và giao thông, phía bắc giáp giao thông, phía nam giáp đất ông Phan Văn T và ngõ đi chung (ký hiệu S2 có sơ đồ kèm theo).

Ông Hoàng. V. Nh, bà Vũ. Th. T được nhận số tiền ông Phan Văn T trả gồm tiền tài sản trên đất và tiền thanh toán ngõ đi chung là 22.041.166 đồng.

          Ông P.Đ. Đ và những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà X được quyền sử dụng thửa đất số 934, diện tích 169 m2, bản đồ 1990 mang tên Hoàng Đình Nh, hiện nay là thửa đất số 467, tờ bản đồ số 19, xã Đông Cơ, diện tích 264 m2 (T), có địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, tỉnh Hưng Yên; có tứ cận như sau: Phía đông giáp thửa 463, 464, 465, 466; phía tây giáp thửa 468, 469; phía bắc giáp thửa 394; phía nam giáp thửa 523 (có sơ đồ kèm theo). Thửa đất trên đã qua nhiều người sử dụng (bà X, ông P. Đ. Đ), ông Nguyễn Ngọc Th và hiện nay người sử dụng thực tế là vợ chồng anh Hoàng Thế K, chị Hoàng Thị Nh, thôn Đ, xã Đ, tỉnh Hưng Yên. Gia đình ông P. Đ. Đ, ông Nguyễn Ngọc Th, bà Bùi Thị Th và anh Hoàng Thế K, chị Hoàng Thị Nh làm các thủ tục chuyển nhượng cho nhau chưa tuân thủ các quy định của pháp luật, do vậy cần hoàn thiện các thủ tục pháp lý, tiến hành đăng ký đất đai theo quy định của pháp luật khi có yêu cầu.

Các đương sự có quyền liên hệ các cơ quan chức năng để thực hiện việc đăng ký đất đai đối với thửa đất nêu trên theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Ông Phan Văn T, ông Hoàng V. Nh, ông P. Đ. Đ là người cao tuổi nên không phải chịu án phí; các anh chị Phạm Thị L, Phạm Thị L, Phạm Văn T, mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.782.000 đồng (một triệu bảy trăm tám mươi hai nghìn đồng)”.

Qua nghiên cứu, Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6- Hưng Yên nhận thấy: Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2025/DS-ST ngày 29/9/2025 của Tòa án tuyên xác định việc đổi đất giữa ông P. Đ. Đ, bà X và ông Hoàng. V. Nh vô hiệu một phần là có căn cứ, tuy nhiên bản án vẫn còn có những vi phạm sau:

Thứ nhất, về việc thu thập chứng cứ: Tòa án chưa xác minh, thu thập đầy đủ tài liệu liên quan đến việc quy đổi đất ruộng ngoài đồng vào thổ cư của hộ ông Hoàng. V. Nh,  bà Vũ .Th.T. Theo xác minh tại UBND xã Đ, thời điểm chia ruộng năm 1993 có việc quy đổi giữa đất vườn tạp và đất nông nghiệp, song địa phương không còn hồ sơ lưu trữ. Tòa án căn cứ vào lời khai này để xác định toàn bộ phần đất hộ ông Hoàng. V. Nh đang sử dụng là hợp pháp là chưa đủ căn cứ vững chắc, vi phạm quy định tại Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Thứ hai, về việc giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: Bản án xác định việc đổi đất giữa ông P. Đ.Đ, bà X và ông Hoàng. V. Nh vô hiệu một phần, nhưng chưa xem xét toàn diện hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, Tòa án chỉ buộc ông Hoàng. V. Nh, bà Vũ .Th. T trả 202 m² đất cho ông Phan Văn T mà không buộc ông P. Đ. Đ, bà X hoặc người thừa kế của bà X hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất đã nhận khi đổi đất, dẫn đến giải quyết vụ án chưa triệt để, ảnh hưởng quyền lợi các bên.

Thứ ba, về án phí: Bản án tuyên buộc các con của bà X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, trong khi họ thuộc diện người cao tuổi được miễn án phí theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, là không đúng quy định của pháp luật.

Với những vi phạm nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6 xác định bản án dân sự sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và áp dụng pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, Viện kiểm sát đã kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử phúc thẩm theo hướng hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo đúng quy định pháp luật.

Hoạt động kháng nghị phúc thẩm trong vụ án trên thể hiện rõ quan điểm của Viện kiểm sát cũng như tinh thần trách nhiệm cao của Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, kiên quyết bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức cá nhân,  góp phần bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất, quyết tâm cùng các cơ quan xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, hiện đại- vì nhân dân phục vụ.

                                       Phạm Ngọc Trang, VKSND khu vực 6- Hưng Yên


Thông tin nội bộ